Xuất tinh sớm


phong kham tam than

Ảnh minh họa

1. Khái niệm: Xuất tinh sớm trong tâm thần học có mã bệnh là F52.4  (Theo phân loại bệnh quốc tế ICD-10/ 1992).  Xuất tinh sớm là hiện tượng xuất tinh sau một khoảng thời gian ngắn không theo chủ định và mong muốn của người đàn ông. Có thể nói xuất tinh sớm là một hiện tượng thường gặp, ít người đàn ông nào trong suốt cuộc đời không trải qua ít nhất một lần xuất tinh sớm; theo thống kê thì khoảng 20% nam giới rơi vào tình trạng xuất tinh sớm. Nguyên nhân gây ra hiện tượng này phần lớn có nguồn gốc tâm lý chẳng hạn như: lo lắng, căng thẳng hoặc do những kích thích quá độ mà người nam giới  không tự điều khiển được cảm xúc của mình
2. Nguyên nhân
2.1.Nguyên nhân tâm lý
Là một nguyên nhân chủ yếu được nhiều tác giả nhắc đến. Để thời gian giao hợp được bình thường phải có sự thăng bằng nhịp nhàng giữa quá trình hưng phấn và ức chế. Quá nhậy cảm về hưng phấn có thể dẫn tới xuất tinh sớm. Nhiều yếu tố đã làm cho quá trình hưng phấn quá nhậy cảm:
2.1.1 Trước những tình huống quá xúc động hồi hộp mà bản thân không đủ sức để kiềm chế nổi. Nam giới ở lứa tuổi mới thành niên, trong những lần giao hợp đầu tiên, vì chưa thể làm quen ngay với những xúc động hết sức mới lạ và quá kích động cho nên xuất tinh sớm, thậm chí chưa kịp cởi bỏ quần áo để hành sự thì đã bị xuất tinh hết ra quần.
Cũng có những trường hợp đột ngột gặp gỡ người bạn tình quá hấp dẫn ngoài cả sự mong ước của mình đâm hấp tấp, luống cuống thiếu tự chủ rồi cũng bị xuất tinh sớm. Ở nhóm bệnh này, việc xuất tinh sớm có thể diễn biến theo 2 chiều hướng:
- Nếu được tư vấn sớm và được hướng dẫn tỷ mỉ, những cảm xúc hồi hộp ban đầu sẽ quen dần; người bệnh yên tâm và tự tin hơn trong những lần giao hợp tiếp. Việc xuất tinh sớm dần dần ổn định hơn.
- Nếu không được sự hướng dẫn chu đáo, việc xuất tinh sớm lặp đi lặp lại nhiều lần trở thành một phản xạ có điều kiện. Người bệnh bắt đầu hoang mang lo sợ, càng ngày càng thiếu tự tin. Kèm theo đó nếu lại có thêm sự phàn nàn, trách cứ của người bạn tình, người bệnh càng bị dấn sâu vào những ám ảnh của việc xuất tinh sớm và  trở thành một cố tật.
2.1.2. Những hoàn cảnh khách quan thúc đẩy việc xuất tinh sớm tự nguyện
Tại một số vùng trên thế giới, theo tập tục người đàn ông được quyền lầy nhiều vợ và không hề quan tâm đến khoái cảm của người vợ. Trong giao hợp, người chồng chỉ muốn kết thúc sớm để còn tiếp tục với người vợ khác. Và cũng có thể do thiếu tri thức cho rằng thời gian xuất tinh sớm như vậy là một việc bình thường của cơ thể con người.
Ảnh hưởng của một số tín ngưỡng cho rằng hoạt động tình dục là một quá trình tội lỗi cho nên càng kết thúc nhanh càng tốt.
Sự mâu thuẫn trong hôn nhân gia đình gây ra sự chán chường chăn gối coi như đó chỉ là những động tác nghĩa vụ phải làm.
Những cuộc tình vụng trộm kéo dài cần phải trốn tránh gia đình và dư luận xã hội cho nên khi hành sự cả đôi bên đều mong muốn và giục giã nhau kết thúc cho nhanh. Tất cả những tâm lý đó tiếp diễn nhiều lần trong đời sống  tạo thành một cung phản xạ có điều kiện in hằn trong vỏ não, rất khó có thể xoá bỏ được.
2.1.3. Sự thất bại trong một lần giao hợp dẫn đến việc xuất tinh quá sớm do một nguyên nhân cụ thể nào đó của từng người. Điều này đã dai dẳng ám ảnh người bệnh gây ra sự bực bội, chán nản, lo lắng thành một sự mặc cảm vĩnh viễn không thể nào xoá bỏ được mỗi khi nguyên nhân cụ thể đó lại xuất hiện.
2.1.4. Những khó chịu gây ra từ phía người phụ nữ trong cuộc giao hợp. Thái độ lãnh cảm miễn cưỡng, sự chểnh mảng trong việc vệ sinh thân thể gây ra những mùi hôi đặc biệt làm ức chế lòng ham muốc tiếp tục. Người chồng phải cố xuất tinh nhanh để kết thúc. Thời gian đó lâu dần trở thành cố tật.
2.1.5. Ở người già cần lưu ý thêm những nguyên nhân:
- Sức yếu do một số bệnh mạn tính.
- Có rối loạn sinh lý.
- Có suy giảm tình dục.
- Có chán nản bất mãn trong cuộc sống cuối đời.
2.1.6. Một nguyên nhân còn đang tranh cãi đó là việc thủ dâm. Phần lớn những bệnh nhân xuất tinh sớm có tiền sử lúc thiếu thời đã tự thủ dâm nhiều lần. Việc thủ dâm gây nhiễu loạn cơ chế xuất tinh. Lý thuyết y họ cổ truyền giải thích theo cơ chế hoà hợp âm – dương. Người nam giới xuất tinh là đưa khí dương vào cơ thể người phụ nữ. Ngược lại, túi tinh sau khi co bóp xẹp lép, sẽ hút các khí âm của người phụ nữ. Âm dương có điều hoà, cơ thể mới bình an.
Tuy nhiên, vấn đề còn đang tranh luận vì thực tế có những người có tiền sử thủ dâm nhưng không bị xuất tinh sớm.
2.2. Nguyên nhân thực thể
Có thể chia thành 3 nhóm:
2.2.1. Quá tăng nhậy cảm vùng dương vật
Trong quá trình giao hợp dương vậy được đưa hoàn toàn vào âm đạo (lúc này cũng bị co bóp do kích thích). Đầu dương vật tiếp xúc trưc tiếp với cổ tử cung như một ổ gối đệm. Quá trình ma sát theo “nhịp đập” tạo nên các cảm giác kích thích. Cảm giác đó truyền tới các hạch giao cảm gần cơ quan xuất tinh rồi truyền tiếp theo cơ chế hưng phấn tăng dần. Quá trình nhậy cảm vùng dương vật, nhất là đầu dương vật, làm cho quá trình hưng phấn diễn ra mau lẹ hơn dẫn tới việc xuất tinh nhanh hơn. Người ta nhận thấy ở những người Châu Phi có tục lệ cắt bao quy đầu sớm, nghĩa là trong quá trình lớn lên và trưởng thành đầu dương vật đã đươc làm quen với các cọ sát trong sinh hoạt thường ngày trở nên chai lỳ hơn cho nên thời gian tiềm ẩn xuất tinh của những người này kéo dài hơn.
Trong màn “dạo đầu” của cuộc giao hợp, sự mân mê kích thích quá nhiều lên vùng dương vật cũng có thể làm cho người nam giới xuất tinh sớm.
2.2.2. Làm tăng ngưỡng kích thích của các hạch thần kinh giao cảm vùng quanh cơ quan xuất tinh cũng làm cho việc xuất tinh nhanh hơn. Nhiều nghiên cứu được thực hiện để kiểm tra độ nhậy cảm có thể lớn hón ở những người đàn ông xuất tinh sớm.
Thông báo đầu tiên chỉ ra rằng, không có sự khác nhau đáng kể của ngưỡng chủ động và kích thích rung của dương vật giữa những người bị xuất tinh sớm và những người bình thường làm đối chứng.
Ngược lại, trong một số nghiên cứu trên những trường hợp xuất tinh muộn cho thấy rằng nếu dùng các phương pháp kích thích lên vùng hạch thần kinh giao cảm quanh cơ quan xuất tinh thì có hiệu quả rõ ràng làm cho việc xuất tinh nhanh hơn.
2.2.3. Do một số bệnh
Đã có một số công trình nghiên cứu đánh giá tiềm năng của vùng xương cùng trong đó có đám rối thần kinh cùng được kích động cũng như một số bệnh ở vùng này có thể làm thay đổi xung động kích thích hướng tâm từ niệu đạo sau.
Một số bệnh cụ thể như:
- Viêm tuyến tiền liệt mạn tính.
- Trĩ tắc mạch và gây đau.
- Trĩ nội viêm mãn tính.
- Nhiễm trùng tổ chức liên kết quanh tuyến tiền liệt và rò quanh hậu môn. Vai trò viêm tuyến tiền liệt mãn tính có liên quan tới rối loạn tâm lý như lo lắng, buồn chán. Mặt khác viêm tuyến tiền liệt do hiện tượng giãn căng cổ tuyến có thể làm thay đổi tiềm năng nghỉ của cơ quan sinh dục và đặt nó vào trong điều kiện hoạt động cao. Nhiễm trùng tổ chức lỏng lẻo có thể ảnh hưởng tới ngưỡng hạch giao cảm sát đó giống như một nguồn kích thích. Nhiễm trùng viêm làm thay đổi môi trường lân cận tuyến tiền liệt. Điều này tác động lên các xung động hướng tâm từ niệu đạo sau làm giảm ngưỡng cần thiết cho sự phóng tinh qua phản xạ trung gian. Nhiều công trình nghiên cứu đã xác định sự liên quan của viêm mạn tính vùng này với sự phát triển xuất tinh sớm.
- Một nguyên nhân thực thể không phổ biến có thể gây nên xuất tinh sớm là thương tổn tuỷ sống.
- Một số bệnh thiểu năng sinh dục như suy tuyến yên, rối loạn cương dương, tăng prolactin máu, tổn thương thần kinh do rượu…có thể gây ra xuât tinh sớm.
3. Điều trị
3.1 Điều trị tâm lí.
Nhiều lý thuyết về tâm lý học đã chứng minh bệnh xuất tinh sớm bị ảnh hưởng bởi sự lo âu, trầm cảm, rối loạn cá tính do mối quan hệ với người bạn tình, với xã hội…
Chứng nào các rối loạn tâm lý chưa được điều chỉnh tốt thì việc điều trị đơn thuần về chuyên môn ít có hiệu quả. Cần xem xét mức độ rối loạn tâm lý của bệnh nhân trước khi lập phương án điều trị. Nhiều bệnh nhân bị rối loạn tâm lý trầm trọng thì cần tiến hành trị liệu tâm lý trước, kể cả trị liệu về ứng xử.
Henlen Singer Kaplan, nhà tâm lý học Mỹ, đã phân loại rối loạn tâm lý trong rối loạn tình dục làm 3 mức độ: nhẹ, trung bình và nặng.
- Rối loạn nhẹ là những người hay lo âu, ám ảnh, về sự yếu kém của mình trong hoạt động tình dục, không tha thiết với chuyện tình dục.
- Rối loạn trung bình là những trường hợp có ảnh hưởng không thuận lợi từ phía gia đình, tiền sử sang chấn tâm lý thời niên thiếu về sinh hoạt tình dục để lại một ám lo âu.
- Rối loạn nặng là những trải nghiệm thất bại nặng nề về hoạt động tình dục thời niên thiếu; những cấm kỵ cực đoan về lề luật tôn giáo về tập tục gia phong liên quan đến tình dục; kể cả những xung đột gay gắt giữa cá nhân xã hội, giữa cá tính của đôi bạn tình trong một cuộc hôn nhân ép buộc.
Đề ra một phương án để điều chỉnh những rối loạn tâm lý cần chú ý một số đặc điểm như sau:
3.1.1 Thái độ tiếp xúc ban đầu
Người bệnh, với bao lo âu phiền muộn và sự mặc cảm tự ty yếu kém về giới tính sẵn có, lần đầu tiên đến gặp thầy thuốc sẽ có nhiều băn khoăn mới phát sinh: liệu lần này có chữa khỏi hay không? Có tốn kém không? Có ảnh hưởng đến sinh hoạt thường ngày hay không?
Cuộc thăm khám lần đầu không chỉ là buổi thu thập thông tin mà là cuộc đối thoại với người bệnh hoặc cặp vợ chồng người bệnh nhằm thúc đẩy ý chí của bệnh nhân phối hợp với kế hoạch điều trị trong tương lai. Cuộc đối thoại phải được diễn ra trong một không khí thoải mái và kín đáo một cách tế nhị để người bệnh có thể trình bày đầy đủ những điều thầm kín riêng tư của mình. Thái độ người thầy thuốc cần có sự trân trọng người bệnh. Ngôn ngữ dùng nên đúng mức, không quá thiên về y học, càng không nên sỗ sàng miệt thị khi bệnh nhân bày tỏ những yêu cầu của mình.
3.1.2. Cần gây được sự tin tưởng của người bệnh
Nhóm bệnh nhân này thường đã “vái tứ phương”. Tiền mất rất nhiều mà tật vẫn mang. Bằng mọ cách người thầy thuốc phải chinh phục được lòng tin của bệnh nhân. Có tin tưởng tuyệt đối vào phương án sắp sửa chấp nhận điều trị thì việc điều trị mới có kết quả. Muốn như vậy người thầy thuốc phải biểu hiện được cái tâm của mình. Phải cho bệnh nhân thấy rõ quá trình chẩn đoán và điều trị của mình tuân thủ những quy trình khoa học một cách triệt để nhằm mục đích chính là mang lại hiệu quả tốt trong điều trị chứ không nhằm mục đích lý tài, khoa trương tự tâng bốc trong đây là phương pháp gia truyền, độc tôn để lôi kéo người bệnh. Sự ân cần trong tiếp xúc, thái độ trân trọng thông cảm với người bệnh đường lối điều trị khoa học hiện đại, là cơ sở gây được niềm tin.
Củng cố được niềm tin, quan hệ giữa thầy thuốc và bệnh nhân không còn sự cách biệt. Cần chú ý lắng nghe những lời trình bày thành thật dấu kín tự đáy lòng người bệnh để chọn lọc tìm ta những nguyên nhân sâu xa khởi phát bệnh. Cần gặp gỡ riêng người chồng vì có thể người bệnh muốn dấu những người thân kể cả vợ mình. Nhưng sau đó rất cần thiết gặp gỡ cả hai vợ chồng. Sự thông cảm chia sẻ nỗi bất hạnh của nhau cũng như sự cộng tác trong quá trình điều trị sắp tới của người chồng, người vợ có một vị trí rất quan trọng.
3.1.3. Hướng dẫn các biện pháp tự điều chỉnh
Mỗi trường hợp xuất tinh sớm đều có những nguyên nhân khác nhau. Phải tìm đúng nguyên nhân chủ yếu gây bệnh thì sự tư vấn các biện pháp tự điều chỉnh mới có hiệu quả.
Với những thanh niên giao hợp đầu tiên, vì quá hồi hộp trước những cảm xúc hết sức mới mẻ nên xuất tinh rất sớm. Chỉ cần hướng dẫn nên tiếp tục, ngay trong đêm đó, giao hợp lần thứ hai (thời điểm ẩn tinh chắc hẳn sẽ lâu hơn). Bệnh nhân quen dần với tiếp xúc, tự tin hơn và dần sẽ khỏi bệnh.
Một nhóm khác, vì độ cương dương vật không đủ cứng, đã vội vàng hấp tấp nhập cuộc ngay vì sợ dương vật sẽ xỉu đi. Những trường hợp đó phải có biện pháp hỗ trợ tăng độ cương dương vật (xem phần rối loạn cương dương) để bệnh nhân đủ tự tin và chủ động hơn trong viêc kìm hãm xuất tinh.
Có những người than phiền từ cơ thể người vợ bốc ra mùi hôi rất khó chịu nên muốn xuất tinh cho nhanh để kết thúc sớm; hoặc người vợ mặc quần áo quá chật rất khó cởi bỏ làm mất quá nhiều thời gian bị kích thích trong màn “dạo đầu”… Những trường hợp đó cần tư vấn cho người vợ nên khắc phục.
Khó khăn nhất vần là những trường hợp có mâu thuẫn lứa đôi hoặc hôn nhân ép buộc. Không thể nào điều trị được tốt khi đôi trai gái có những bất đồng quá lớn. Làm sao có thể đòi hỏi họ có những động tác hiệp đồng gây hứng khởi hoặc rỉ tai nhau những như cầu ham muốn đòi hỏi. Điều trị tâm lý là nhằm giải quyết những trở ngại trong quan hệ tình dục để duy trì cuộc sống hoà hợp lứa đôi. Mỗi bên cần được động viên, chia sẻ cởi mở với nhau. Nếu dè dặt, lãnh đạm miễn cưỡng thiếu tự tin việc điều chỉnh sẽ ít kết quả. Nếu chỉ hoà hoãn tạm thời những mâu thuẫn trong hôn nhân thì cuộc điều trị cũng sẽ thất bại. Phải đối mặt với thực trạng và tìm những biện pháp hợp lý cho cả đôi bên thì mới hy vọng đạt hiệu quả.
Tại Mỹ có  những trường huấn luyện dậy về các kiểu giao hợp để điều chỉnh được việc xuất tinh. Phương pháp tập luyện của Marters và Johnson là để hình thành một vòng cung phản xạ mới trên vỏ não. Nguyên tắc của phương pháp là: để người vợ làm mọi động tác kích thích dương vật của chồng; khi gần xuất tinh thì cấu mạnh vào đầu dương vật của chồng; gây đau là đầu dương vật xỉu lại; động tác tập luyện được lặp đi lặp lại nhiều lần cho đến khi người chồng cảm thấy tự tin và tự chủ được việc xuất tinh thì mới tiến hành giao hợp thực sự; ngay khi giao hợp người chồng nhận thấy chưa đủ khả năng tự kiềm chế việc xuất tinh thì rút ra ngay và nhắc lại phương pháp tập luyện trên. Phương pháp này có kết quả tốt  nhưng đòi hỏi sự kiên nhẫn của cả hai vợ chồng trong thời gian nhiều tháng kéo dài.
Một phương pháp đơn giản hơn: Trong quá trình giao hợp, bắt người chồng phải đếm số lần “nhịp đập” một cách chính xác; bị phân tâm bởi việc đếm, thời gian có thể kéo dài hơn. Tìm mọi cách phân tâm trong lúc giao hợp là những điều từng người chồng phải tự lựa chọn cho thích hợp.
3.2 Dùng thuốc.
Mục đích của việc dùng thuốc là làm giảm  hưng phấn trong sinh hoạt tình dục, vì vậy mà quá trình xuất tinh chậm lại.
3.2.1. Thuốc kháng dopamin
Thuốc này ngăn chặn các trung tâm tiếp nhận dopamin bao gồm các loại thuốc chống loạn thần như haloperidol, sulpirid, chlopromazin, thioridazin.  Các thuốc kháng dopamin làm chậm quá trình xuất tinh.
3.2.2. Các thuốc chống trầm cảm loại SSRI  như fluoxetin, sertralin, paroxetin cũng có tác dụng làm chậm quá trình xuất tinh. Thuốc này ngăn cản sự phân huỷ serotonin. Khi nồng độ serotonin tăng lên trong máu thì quá trình xuất tinh bị chậm lại.
4. Kết luận.
Xuất tinh sớm là một bệnh không gây chết người, không gây ra những biến chứng phải cấp cứu nhưng ảnh hưởng rất nhiều đến đời sống hạnh phúc lứa đôi. Người vợ luôn cảm thấy bực dọc chán chường mà không nói lên lời...Người chồng luôn bị ám ảnh “ bại trận” tạo nên một tâm lí chán nản, lo âu, làm ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng cuộc sống.