1. Đặc điểm chung.
Tỷ lệ mắc các rối loạn hoang tưởng nói chung là 0,03% dân số và chiếm khoảng 1-2% tổng số bệnh nhân điều trị nội trú trong các bệnh viện tâm thần, khởi phát bệnh thường ở lứa tuổi trung niên và người cao tuổi, tỷ lệ mắc bệnh trong cuộc đời là 0,05-0,1%.
Các yếu tố văn hoá, tôn giáo và giới tính của bệnh nhân cần được chú ý khi xem xét, đánh giá các rối loạn hoang tưởng. Một số nền văn hoá có niềm tin đặc biệt được coi là hoang tưởng ở các nền văn hoá khác. Rối loạn hoang tưởng nói chung không có sự khác biệt về giới tính, nhưng hoang tưởng ghen tuông thường gặp ở nam giới hơn ở nữ giới.
Rối loạn hoang tưởng có thể liên quan với các vấn đề về xã hội, hôn nhân, và nơi làm việc, thường bệnh nhân biện luận và giải thích tương đối phù hợp với hoàn cảnh hiện tại thí dụ như: hoang tưởng gán ý, các sự kiện chỉ bình thường nhưng bệnh nhân lại gán cho một ý nghĩa đặc biệt. Một số bệnh nhân khác, rối loạn hoang tưởng biểu hiện bằng khí sắc bị kích thích hoặc bị hành hạ hoặc ghen tuông thường nổi khùng và có hành vi bạo lực hoặc kiện cáo. Các giai đoạn trầm cảm chủ yếu hoặc trầm cảm nhẹ thường thấy ở bệnh nhân rối loạn hoang tưởng. Rối loạn hoang tưởng còn có thể phối hợp với các rối loạn ám ảnh cưỡng bức, rối loạn cảm giác bản thể và rối loạn nhân cách thể paranoid hoặc khép kín.
Rối loạn hoang tưởng thường gặp với tỷ lệ cao hơn ở những người họ hàng của những bệnh nhân TTPL. Một số nghiên cứu cho rằng rối loạn nhân cách thể khép kín hoặc thể paranoid có thể thấy ở những người có quan hệ huyết thống mức độ I của bệnh nhân rối loạn hoang tưởng. Rối loạn hoang tưởng nhìn chung khởi phát ở những người cao tuổi, tiến triển mạn tính, khả năng lao động thường không bị giảm sút. Trong một số trường hợp, giai đoạn ổn định có thể lâu dài. Cũng có trường hợp tái phát ngay sau đó.
2. Các thể lâm sàng.
2.1. Rối loạn hoang tưởng thể được yêu:
Hoang tưởng thể được yêu là hoang tưởng xây dựng trên cơ sở có một người khác yêu mình. Bệnh nhân cho rằng đó là một tình yêu lãng mạn, lý tưởng, có thiên hướng về tâm thần hơn là tiếp xúc tình dục và tin rằng người đó có vị trí cao hơn bệnh nhân và hoàn toàn xa lạ như: những người nổi tiếng, hoặc các vĩ nhân. Bệnh nhân tìm mọi cách, cố gắng tiếp xúc với người trong hoang tưởng như: gọi điện, viết thư, tặng quà hoặc đến thăm. Tỷ lệ hoang tưởng được yêu trong lâm sang cả 2 giới tương đương nhau.
2.2. Rối loạn hoang tưởng thể tự cao:
Hoang tưởng tự cao là thể hoang tưởng được xây dựng trên một niềm tin có khả năng to lớn nhưng chưa được biết đến hoặc tiềm năng lớn chưa được khám phá, hiếm hơn người bệnh có những hoang tưởng có mối liên quan đặc biệt với các bậc vĩ nhân như: một cố vấn của tổng thống chẳng hạn, thậm chí còn cho rằng mình là một nhân vật vĩ đại. Hoang tưởng tự cao còn có thể có nội dung tôn giáo như: bệnh nhân tin rằng mình có một thông điệp của thượng đế.
2.3. Rối loạn hoang tưởng thể ghen tuông:
Hoang tưởng ghen tuông là thể hoang tưởng được xây dựng trên cơ sở cho rằng vợ hoặc chồng mình, hoặc người yêu của mình không chung thuỷ, nhưng niềm tin này không có cơ sở thực tế và suy diễn trên cơ sở sai lầm của các bằng chứng mà bệnh nhân cho là rõ rệt, được chọn lọc theo phán quyết của hoang tưởng. Bệnh nhân có hoang tưởng ghen tuông thường hành hạ vợ hoặc chồng hoặc người yêu và cố gắng hỏi theo khía cạnh phản bội của đối tượng.
2.4. Rối loạn hoang tưởng thể bị hại:
Hoang tưởng bị hại là thể hoang tưởng được xây dựng trên cơ sở cho rằng một số người có mưu đồ chống lại mình như: theo dõi, lừa đảo, làm gián điệp, đầu độc hoặc gây lạm dụng ma tuý. Một thiếu sót nhỏ có thể được phóng đại và trở thành trung tâm của hoang tưởng. Những hoang tưởng bị hại có thể trở thành những xung động lặp đi lặp lại để thảo mãn cho chính bản thân bệnh nhân. Bệnh nhân có hoang tưởng bị hại dễ phật ý và có thể sử dụng bạo lực đối với những đối tượng mà họ cho rằng đang chống lại mình.
2.5. Rối loạn hoang tưởng dạng cơ thể:
Hoang tưởng dạng cơ thể là hoang tưởng được xây dựng trên cơ sở các rối loạn chức năng hoặc rối loạn cơ thể. Hoang tưởng này có thể rất khác nhau, thường gặp nhất là bệnh nhân tin rằng mình nhận thấy mùi khó chịu ở da, miệng, trực tràng hoặc âm đạo hoặc bị nhiễm các bệnh do côn trùng ở da hoặc bị hỏng một cơ quan nội tạng nào đó hoặc một phần cơ thể cảm thấy không bình thường hoặc dị dạng, bất chấp các bằng chứng rõ rệt hoặc tin rằng có một phần cơ thể hoặc các nội tạng không hoạt động.
3 Điều trị.
3.1. Liệu pháp hoá dược:
Rối loạn hoang tưởng điều trị ngoại trú là chủ yếu, nhưng điều trị nội trú cho một số trường hợp sau:
+ Bệnh nhân cần khám toàn thân, đặc biệt là khám thần kinh để tìm nguyên nhân của rối loạn hoang tưởng.
+ Bệnh nhân kích động, có hành vi bạo lực, tự sát, giết người do hoang tưởng chi phối.
+ Bệnh nhân có hành vi gây rối loạn trong gia đình và nơi công tác do các hoang tưởng chi phối.
3.2. Liệu pháp tâm lý:
Liệu pháp tâm lý nhằm xác lập niềm tin hợp lý cho bệnh nhân. Liệu pháp tâm lý cá nhân, liệu pháp nhận thức, liệu pháp hành vi và liệu pháp tâm lý gia đình .